Xuất khẩu than giảm mức kỷ lục

> Vinacomin kiến nghị giảm thuế xuất khẩu than xuống 10%

TP – Ông Nguyễn Văn Biên, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) cho biết, xuất khẩu than đang giảm mạnh nên doanh thu và kết quả kinh doanh thấp.

Theo ông Biên, trong tháng 7, Vinacomin chỉ tiêu thụ 2,1 triệu tấn than (trong nước 1,85 triệu tấn và xuất khẩu 0,25 triệu tấn). Lũy kế 7 tháng đầu năm đạt 23,6 triệu tấn than (trong nước 16,35 triệu tấn; xuất khẩu 7,25 triệu tấn). Do sản lượng than tiêu thụ thấp nên doanh thu, kết quả kinh doanh cũng thấp theo.

Nguyên nhân là mùa mưa nên than bán cho điện giảm (tháng 7 than bán cho điện chỉ đạt 0,9 triệu tấn). Trong khi đó, xuất khẩu than cả tháng 7 chỉ được 250 ngàn tấn. Nếu tính từ thời điểm tăng thuế xuất khẩu than lên 13%, từ ngày 7/7 đến 7/8: sản lượng than xuất khẩu một tháng trung bình chỉ đạt 0,12 triệu tấn, bằng 1/10 bình quân tháng khi áp dụng thuế suất 10%.

Do tiêu thụ than chậm nên lượng than tồn kho tăng, việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng, thu nộp ngân sách giảm (dự kiến cả năm giảm trên 1 ngàn tỷ đồng so với kế hoạch).

Hiện, khoảng 30% sản lượng than phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới. Từ khi tăng thuế xuất khẩu, để nộp thuế 13% không bị lỗ, Vinacomin đã phải tăng giá bán tương ứng, trong khi nền kinh tế thế giới vẫn tăng trưởng chậm, giá than giảm.

Nếu thuế xuất khẩu than không được điều chỉnh và tình hình thị trường như hiện nay, dự kiến 6 tháng cuối năm, Vinacomin có thể chỉ xuất khẩu tối đa được khoảng 1 triệu tấn (giảm 6 triệu tấn so với 6 tháng đầu năm).

“Thuế xuất khẩu cần điều chỉnh hợp lý, không nên tăng thuế trong lúc thị trường còn nhiều khó khăn để tiêu thụ sản phẩm, ổn định sản xuất, việc làm và tăng thu ngân sách”, ông Biên nói.

PHONG CẦM

Từ khoá: kinh tế thế giới tổng giám đốc nền kinh tế thị trường người lao động tiêu thụ vinacomin xuất khẩu

Công nhân nộp bảo hiểm xong, rơi luôn vào diện nghèo

Công nhân nộp bảo hiểm xong, rơi luôn vào diện nghèoĐào tạo nghề tại Trường nghề CĐ. Ảnh: Kỳ Anh

Thường vụ Quốc hội thảo luận dự thảo Luật Việc làm:

Liệt kê hàng loạt các khoản mà một người lao động phải nộp trong lương, nào là thuế thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, rồi giờ lại thêm bảo hiểm thất nghiệp, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của QH Ksor Phước lo lắng: “Không khéo nhìn tổng lương có thể thu nhập mức trung bình, nhưng thu xong lại đẩy họ vào nhóm nghèo trong xã hội”. Ông đề nghị phải quy định “tỉ lệ phần trăm tối đa trong phần lương phải đóng góp”.

5 dự án nhưng chỉ 1 cái giếng

Vừa đi giám sát về dạy nghề cho lao động thiểu số, tiếp xúc với DN, người lao động, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của QH Ksor Phước phản ánh tình trạng có quá nhiều trung tâm dạy nghề, đang phổ biến tình trạng “dạy trùng nghề, dạy nghề tràn lan”, trong khi lương trả cho bộ máy dạy nghề cũng từ ngân sách nhà nước. Tình trạng trùng lặp được Chủ tịch Hội đồng Dân tộc mô tả bằng hình ảnh “qua giám sát, 1 cái giếng thuộc 5 dự án, nhưng trên thực địa chỉ có 1 cái giếng”. Hay “một còn bò, thuộc rất nhiều dự án”.

Ông Phước đặt ra 2 vấn đề: Các DN cần được khyến khích, nhưng “nếu khuyến khích tràn lan thì sẽ mất hết. Trong khi bản chất của dạy nghề thì “dịch vụ rất nhiều trong khi hỗ trợ thì không rõ nét”.

Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Mai Đức Chính cũng băn khoăn về quy định hỗ trợ DN đào tạo nâng cao kỹ năng nghề vì lý do suy thoái kinh tế. Theo ông, hiện có hàng chục ngàn DN ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế. Nếu chúng ta hỗ trợ thế này thì Quỹ thất nghiệp chưa chắc đã đảm bảo được. Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐVN đề xuất: “Cần có cơ chế kiểm tra giám sát để tránh việc lạm dụng sự hỗ trợ này”.

Về vấn đề chi trả, hỗ trợ người lao động thất nghiệp, theo ông Chính, các huyện đều có cơ quan BHXH và nên để họ chi trả, vừa giảm thủ tục hành chính, vừa đỡ cho người lao động “phải đi rất xa đến cơ quan BHXH”.

Có thể mang quỹ quốc gia đi đầu tư?

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách của QH Phùng Quốc Hiển phân tích, trong dự thảo luật có rất nhiều quy định sự hỗ trợ, với rất nhiều đối tượng từ thanh niên đến người nghèo. Chẳng hạn đối tượng “thanh niên”, hằng năm có tới 1,6 triệu người được “bổ sung” vào diện “thanh niên”. Ông đặt câu hỏi “nhưng như thế, ngân sách nhà nước phải đảm đương bao nhiêu hằng năm?”.

Liên quan đến việc sử dụng Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm, thống nhất với quan điểm ngoài việc đóng góp thì quỹ cần phải sinh lời, thậm chí “việc gửi tiền vào các ngân hàng để sinh lời thì thôi cũng được”, tuy nhiên Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách lo lắng việc cho phép đầu tư vào các công trình “do Chính phủ quy định” hay cho vay, thì cần lưu ý. Cho vay dưới hình thức nào? Cho vay phát hành tín phiếu, trái phiếu có được không? Nếu mở rộng quá sẽ không đảm bảo an toàn của quỹ. Thực tế, nhiều khoản đầu tư không hiệu quả đâu – ông nói.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH Phan Trung Lý thì đặt vấn đề với quy định hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp giao cho Bộ LĐTBXH quy định. “Vì sao lại không quy định trong luật? – ông Lý đặt câu hỏi, đồng thời khẳng định, vấn đề này cần minh bạch”. Ông cũng chỉ ra: Luật Việc làm có 21/63 điều, tức 1/3 số điều giao Chính phủ quy định là quá lớn, cần xem lại vì đây là những điều liên quan trực tiếp đến người lao động.

Dự kiến, dự thảo Luật Việc làm sẽ được đưa ra QH vào kỳ họp thứ sáu.

“Doanh nghiệp dịch vụ việc làm hoạt động theo Luật DN, nhưng thực tế có lúc chúng ta không kiểm soát được. Nhiều trường hợp đối tượng trước chúng ta gọi là “cò” đến Sở KHĐT xin cấp phép, xin quỹ và những doanh nghiệp như thế một ngày tìm được 100 lao động thôi đã kiếm được 2 triệu bạc. Vì vậy, cần phải tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực này” – Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Mai Đức Chính nói.

Từ khoá: bảo hiểm thất nghiệp thủ tục hành chính bão bảo hiểm xã hội người lao động thanh niên dự thảo quy định nhà nước việc làm luật việc làm quản lý nhà nước lao động suy thoái kinh tế bảo hiểm

Vụ Cty Logitem No1 buộc NLĐ ký quỹ hàng tỉ đồng: Đã có dấu hiệu sai phạm

Đây là khẳng định của ông Huỳnh Tấn Dũng – Chánh Thanh tra Sở LĐTBXH TPHCM – sau khi nghiên cứu những hồ sơ, tài liệu do phóng viên Báo Lao Động cung cấp về việc chi nhánh tại TPHCM của Cty TNHH vận tải hỗn hợp Việt Nhật số 1 (Cty Logitem No1) yêu cầu người lao động phải ký quỹ.

Theo ông Dũng, trước đây các quy định của pháp luật không quy định việc ký quỹ, nên một số doanh nghiệp đã yêu cầu người lao động phải thế chân một khoản tiền trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động. Nhưng từ 1.5.2013, Bộ luật Lao động đã có quy định nghiêm cấm người sử dụng lao động yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động, vì vậy mọi hình thức thế chân, ký quỹ, đặt cọc trong quan hệ lao động đều là vi phạm pháp luật.

Ông Dũng cũng cho biết, sẽ phân công thanh tra lao động tiến hành thanh tra Cty này.

Như Báo Lao Động số ra ngày 17.8 đã phản ánh, hiện hơn 350 lái xe của Cty Logitem No1 buộc phải ký quỹ ít nhất mỗi người 15 triệu đồng nếu muốn được tái ký hợp đồng lao động hay tuyển dụng vào làm việc, thậm chí nhiều người buộc phải ký quỹ từ nhiều năm qua. Công đoàn chi nhánh TPHCM của Cty đã đề nghị Ban giám đốc Cty trả lại tiền ký quỹ cho người lao động đúng quy định của pháp luật, nhưng bị… lờ đi.

Ngoài ra, theo tiết lộ của chính những cán bộ trong Cty này, thì hàng trăm lái xe ở các tỉnh, thành khác cũng buộc phải ký quỹ như trên.

Từ khoá: người lao động pháp luật lao động người sử dụng lao động bộ luật lao động hợp đồng tphcm quy định

Thanh Hóa: Công nhân phản đối doanh nghiệp đấu thầu nhà máy

VOV.VN -Hàng trăm công nhân Nhà máy gạch Tuynel Đông Văn phản đối Công ty đấu thầu giao khoán Nhà máy cho đơn vị khác.

Sáng 17/8, hàng trăm công nhân Nhà máy gạch Tuynel Đông Văn (đóng tại Đông Văn, huyện Đông Sơn – Thanh Hóa), thuộc Công ty Cổ phần xây dựng K2 đã kéo lên trụ sở Công ty (có địa chỉ tại TP Thanh Hóa) đòi quyền lợi chưa được giải quyết.

Công nhân kéo lên trụ sở Công ty đòi quyền lợi

Theo các công nhân, việc họ kéo lên trụ sở Công là vì: Công ty đã không trả lương cho công nhân từ tháng 6/2013 đến nay; các chế độ về BHXH, BHYT, chế độ thai sản không được giải quyết, kéo dài hàng năm trời làm ảnh hưởng đến quyền lợi của công nhân; Công ty chưa giải quyết xong các chế độ cho công nhân, nhưng lại đi đấu thầu giao khoán Nhà máy gạch cho đơn vị khác…

Nhiều công nhân cho biết, họ đã gắn bó với nhà máy hàng chục năm nay; quá trình công tác đã đóng đầy đủ các chế độ bảo hiểm, đóng cổ phần, thế nhưng khi Công ty cho thầu lại Nhà máy thì không họp bàn với công nhân.

Biên bản tạm dừng buổi chào giá giao khoán

Do công nhân kéo lên Công ty đòi quyền lợi nên việc đấu thầu đã không diễn ra. Cuối cùng, Công ty đã phải lập biên bản ghi: Tạm dừng buổi đấu thầu chào giá giao khoán Nhà máy vào ngày khác. Lãnh đạo Công ty sẽ xem xét các ý kiến, kiến nghị của người lao động và có kế hoạch để giải quyết cho người lao động. Khi chưa thỏa thuận được với người lao động thì Công ty chưa được mở thầu chào giá giao khoán nhà máy./.

Từ khoá: giải quyết công ty cổ phần gia nhà máy công nhân công ty lao động chế độ bảo hiểm quyền lợi người lao động

Nghịch lý lợi nhuận chuỗi ngành hàng cao su

Theo báo cáo ngành hàng cao su của Trung tâm Xúc tiến thương mại (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tình trạng rớt giá mủ cao su từ đầu năm đến nay đã khiến nông dân trồng cao su tiểu điền và các nông trường lao đao. Thế nhưng, khối doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cao su lại thu lãi khủng.

Số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, kết quả xuất khẩu cao su trong 7 tháng qua đạt 498 ngàn tấn, kim ngạch 1,21 tỷ USD, giảm 4,5% về khối lượng và giảm 18,4% về giá trị so với cùng kỳ 2012.

Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ lớn nhất của Việt Nam nhưng đã giảm 12,9% về khối lượng và giảm 24,1% về giá trị so với cùng kỳ. Thị trường Malaysia tăng 17% về khối lượng nhưng giảm 7,5% về giá trị so với cùng kỳ…

Người trồng lao đao

Theo Trung tâm Xúc tiến thương mại (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), giá cao su xuất khẩu từ đầu năm đến nay đạt bình quân 2.540 USD/tấn, giảm 15,9% so với cùng kỳ 2012. Giá thu mua mủ cao su trong nước giảm mạnh gấp nhiều lần so với tốc độ giảm giá cao su xuất khẩu.

Nếu giữa năm 2012, người trồng cao su tiểu điền bán được mủ tươi dạng nước với giá 25-26 nghìn đồng/kg, thì hiện tại chỉ trên dưới 10 nghìn đồng/kg. Tại Tây Nguyên, giá mủ cao su sơ chế chỉ còn 41-42 triệu đồng/tấn.

Không khí ảm đạm đang bao trùm lên các nông trường cao su khi giá bán mủ thấp hơn giá thành sản xuất, tồn kho hàng chục nghìn tấn cao su khiến người lao động đối mặt với tình trạng giảm lương, mất việc.

Điển hình như Công ty TNHH MTV cao su Mang Yang đã có hơn 100 người bỏ việc vì lương khoán trả thấp. Vườn cao su tiểu điền của các nông hộ cũng đang lâm vào tình thế lao đao.

Tại huyện Đức Cơ (Gia Lai) có diện tích cao su tiểu điền khá lớn với hơn 4.200ha, người dân đang lỗ nặng. Ông Đoàn Công Á ở thị trấn Chư Ty đang sở hữu khoảng 7ha cao su cho biết, giá mủ hạ thấp, cao su đến thời điểm mở miệng cạo mà tiền công phải trả cho nhân công cạo mủ quá cao, sản lượng mủ ít, chúng tôi lỗ nặng nhưng không thể không làm. Hầu hết các hộ có vườn cao su lâu năm đang phải khai thác cầm chừng vì giá bán hiện chỉ 10.000 đồng/kg mủ tươi.

Doanh nghiệp lãi cao

Trong khi nông dân và nông trường trồng cao su thua lỗ, thì vừa qua, các doanh nghiệp ngành cao su đều công bố báo cáo tài chính vẫn lãi lớn. Với các doanh nghiệp sơ chế và xuất khẩu cao su, tuy khối lượng xuất khẩu và giá bán giảm mạnh, doanh thu giảm, nhưng nhờ đẩy được giá thu mua mủ cao su nguyên liệu đầu vào xuống thấp nên tổng lợi nhuận thực tế lại tăng lên.

Điển hình như Công ty cao su Tây Ninh, lãi trước thuế 6 tháng đầu năm gần 113 tỷ đồng, đạt 44% kế hoạch cả năm 2013. Lợi nhuận sau thuế của cổ đông công ty này đạt hơn 93 tỷ đồng, cho dù hàng tồn kho của công ty lên mức gần 118,9 tỷ đồng.

Công ty Cổ phần Cao su Hòa Bình có tổng doanh thu quí 2/2013 là gần 107 tỉ đồng, giảm 20 tỉ đồng so với cùng kỳ. Tuy vậy, lợi nhuận thuần vẫn hơn 24 tỉ đồng, bằng lợi nhuận của quí 2/2012.

Công ty Cổ phần cao su Thống Nhất có doanh thu quí 2/2013 đạt gần 86 tỉ đồng, tăng 70% so với cùng kỳ năm trước nhưng lợi nhuận ròng thu về hơn 17 tỉ đồng, tăng 200% so với cùng kỳ 2012…

Khối các doanh nghiệp chế biến sản phẩm từ cao su càng thắng lợi nhờ giảm được chi phí nguyên liệu đầu vào. Trong quý 2/2013, giá cao su nguyên liệu đầu vào tiếp tục giảm 11% so với quý 1 và thấp hơn 18% so với cùng kỳ năm 2012 đã giúp lợi nhuận của các doanh nghiệp săm lốp đạt kết quả khả quan.

Báo cáo của Công ty Cổ phần Công nghiệp cao su miền Nam, tổng doanh thu quí 2/2013 đạt 834 tỉ đồng, tăng 0,9% so với cùng kỳ; lợi nhuận sau thuế đạt 100 tỉ đồng, tăng 29,5% so cùng kỳ.

Báo cáo của Công ty Cổ phần cao su Sao Vàng cho thấy, doanh thu bán hàng đạt gần 257 tỉ đồng, lợi nhuận đạt hơn 18 tỉ đồng, tăng gần 8 tỉ đồng so với quí 2/2013.

Từ đầu tháng 8 đến nay, thị trường cao su đã có dấu hiệu tăng giá trở lại. Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần trước, ngày 10/8, giá cao su RSS 3 trên sàn TOCOM Nhật Bản hợp đồng giao tháng 1/2014 đạt 2.700,8 USD/tấn (tăng 8,4% so với một tuần trước đó); giá SVR 3L Việt Nam đạt 2.305 USD/tấn (tăng 5,4%).

Tại sàn SICOM Singapore và Sở giao dịch MRB Malaysia đóng cửa hai ngày cuối tuần qua, giá TSR 20 hợp đồng tháng 9/2013 đạt 2.279 USD/tấn (tăng 1,7%) và giá SMR 20 đạt 2.288,5 USD/tấn (tăng 1,2%).

Nhập khẩu cao su của Trung Quốc cũng đã tăng vọt trở lại. Trong tuần từ 5/8 – 10/8/2013, giá cao su Việt Nam xuất khẩu tăng lên hai ngày cuối tuần. Kết thúc tuần, giá SVR 3L xuất khẩu ngày 10/8 đạt 2.305 USD/tấn, tăng 120 USD/tấn (5,5%) so với ngày 5/8 và ngày cuối tuần trước đó.

Trong khi giá xuất khẩu tăng trở lại thì giá thu mua mủ từ các vườn cao su lại đang tiếp tục giảm mạnh. Tại Bình Phước, giá thu mua mủ cao su dạng nước từ 13.280 đồng/kg cuối tháng 6 giảm xuống 11.680 đồng/kg vào đầu tháng 7, và đến ngày 12/8 chỉ còn 10.720 đồng/kg. Chỉ 10 ngày đầu tháng 8/2013, giá thu mua mủ dạng nước đã mất gần 1.000 đồng/kg.

Nghịch lý phân bố lợi nhuận trong chuỗi trồng trọt, sản xuất, chế biến, xuất khẩu của ngành cao su vẫn đang có xu hướng trầm trọng thêm. Hậu quả là, nông dân trồng cao su tiểu điền và các nông trường cao su không còn muốn đầu tư chăm sóc, sẽ đe dọa đến sự phát triển bền vững của ngành cao su.

(Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam)

Từ khoá: thị trường công ty cổ phần việt nam doanh nghiệp nông dân giá thành sản xuất gia bão lợi nhuận phát triển người lao động nông nghiệp xuất khẩu nông thôn doanh thu công ty cổ phần xúc tiến thương mại

Hà Tĩnh tố Công ty Nibelc nói sai sự thật

(PetroTimes) –Trước những cáo buộc về việc chính quyền làm khó cho doanh nghiệp của Công ty cổ phần Xây dựng và Cung ứng lao động quốc tế (Công ty Nibelc), UBND tỉnh Hà Tĩnh đã có văn bản số 2881/UBND-TCD chính thức lên tiếng phản bác lại cáo buộc này.

Khu đất Nibelc xây dựng trái phép nhà ở cho công nhân.

Vì đâu Nibelc kêu bị ép?

Theo phản ánh của Công ty Nibelc, từ ngày 12/9/2012, Công ty CP Xây dựng và Cung ứng lao động quốc tế Nibelc và Tập đoàn Samsung C&T Corporation kí hợp đồng cung cấp thợ kỹ thuật và thi công đê chắn sóng Cảng Sơn Dương, thuộc khu công nghiệp Formosa – KKT Vũng Áng. Để đảm bảo cho việc thi công dự án kéo dài 44 tháng, Công ty Nibelc phải xây dựng khu nhà ở, ký túc xá, căng tin tạm cho khoảng hơn 1.000 công nhân, kỹ sư chuyên gia làm việc tại dự án Cảng Sơn Dương.

Do điều kiện mặt bằng thuê làm chỗ ở cho cán bộ quản lý và người lao động tại khu kinh tế vào thời điểm tháng 9/2012 chưa có nên Nibelc đã kí hợp đồng với Công ty CP Xuất nhập khẩu Thủy sản Nam Hà Tĩnh (Shatico) – một công ty cổ phần của Nhà nước để thuê mặt bằng tại xóm Minh Huệ, xã Kỳ Nam, huyện Kỳ Anh để cải tạo, xây dựng mới làm khu nhà ở và làm việc cho công nhân, chuyên gia nước ngoài của Công ty Nibelc. Tổng kinh phí đã đầu tư cho khu nhà ở là hơn 17 tỉ đồng.

Tuy nhiên, khi khu lán trại tạm vừa đưa vào sử dụng vài tháng, Ban Quản lý KKT Vũng Áng đã ra văn bản yêu cầu Công ty Nibelc không cho công nhân được lưu trú trong các khu nhà tạm nằm trên diện tích thuê lại của Shatico và tháo dỡ công trình với lí do hạng mục xây dựng không phù hợp với quy hoạch.

Do đó Công ty Nibelc đã làm đơn “cầu cứu” đến khắp nơi như Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội , Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và báo chí.

Tuy nhiên ngày 18/7, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã có văn bản yêu cầu Ban Quản lý KKT Vũng Áng chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan thống nhất phương án xử lý dứt điểm tài sản xây dựng trái phép nêu trên, xác định rõ lộ trình, thời gian phải hoàn thành việc giải tỏa trước ngày 23/7/2013.

Lãnh đạo công ty Nibelc cho rằng: Việc phá dỡ khu nhà ở của người lao động hiện tại sẽ gây ra thiệt hại rất lớn về tài chính. Nếu thực hiện việc di dời thì toàn bộ thiệt hại này Shatico phải chịu, nghĩa là doanh nghiệp này cũng có nguy cơ phá sản. Ngoài ra, hậu quả trực tiếp là trên 1.000 lao động sẽ mất chỗ ăn ở, không tiếp tục công việc tại dự án, tiến độ chung của toàn dự án Formosa sẽ ảnh hưởng nặng nề.

Hà Tĩnh nói không

Trong văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội và các Bộ, ban ngành ngày 14/8 về sự việc của Công ty Nibelc, UBND tỉnh Hà Tĩnh cho rằng Công ty này đã tố cáo sai sự thật và cố tình vi phạm pháp luật.

UBND tỉnh Hà Tĩnh cho rằng: Việc Công ty Nibelc gửi đơn đến các bộ, ngành trung ương và báo chí rằng Ban quản lý KKT Vũng Áng đã có văn bản đình chỉ khi việc xây dựng đã cơ bản hoàn thành, người lao động đã vào tạm trú gây thiệt hại về kinh tế cho công ty là không đúng sự thật. Bởi vì ngay từ khi mới bắt đầu triển khai xây dựng và chưa đưa người lao động về ở, Ban quản lý KKT Vũng Áng đã có nhiều văn bản yêu cầu đình chỉ thi công các hạng mục công trình này.

Ngoài ra, Hà Tĩnh cũng “phản pháo” việc Công ty Nibelc phản ánh tỉnh không có địa điểm cho công ty thuê là không đúng sự thật. Nhằm giải quyết yêu cầu cấp thiết về mặt bằng xây dựng nhà ở tạm cho người lao động tham gia thi công các dự án tại KKT Vũng Áng, theo đề nghị của Công ty Formosa, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã thống nhất cho tạm sử dụng mặt bằng dự án Khu công nghiệp Hoành Sơn cho các nhà thầu thuê mặt bằng để xây dựng nhà ở tạm cho người lao động. Đến nay đã có 6 doanh nghiệp thuê mặt bằng xây dựng nhà ở cho công nhân.

Do công ty Nibelc không muốn thuê đất tại hạ tầng khu công nghiệp Hoành Sơn, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã giao Ban quản lý KKT Vũng Áng hướng dẫn công ty hoàn chỉnh hồ sơ theo quy định để ban giới thiệu địa điểm xây dựng nhà ở cho công nhân. Nhưng công ty vẫn không thực hiện mà cố tình kéo dài thời gian để ở lại khu vực thuê của Công ty Shatico. Như vậy Công ty Nibelc đã cố tình vi phạm pháp luật.

UBND tỉnh Hà Tĩnh cho rằng: Việc xây dựng trái phép với quy mô lớn, bất chấp sự quản lý của Chính quyền, cơ quan quản lí các cấp của Công ty Shatico và Công ty Nibelc đã dẫn đến những bức xúc đối với nhân dân trong vùng, làm ảnh hưởng đến tiến độ giải phóng mặt bằng các dự án tại Khu kinh tế Vũng Áng. Do đó việc bắt buộc Công ty hai công ty này phải tiến hành tháo dỡ các công trình vi phạm nói trên là đúng quy định pháp luật và điều kiện, tình hình, yêu cầu thực tế tại địa phương.

Lương Thu Mai

Từ khoá: lao động công ty xây dựng công ty cổ phần pháp luật người lao động doanh nghiệp vi phạm bão kinh tế thiệt hại trái phép công nhân công trình gia

Hàng nghìn lao động bị chủ nước ngoài quỵt lương

ANTĐ – Theo Bộ KH-ĐT, hiện cả nước có 518 doanh nghiệp, dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài “vắng chủ”. Tình trạng này khiến hàng nghìn lao động bị mất việc làm, nợ lương và Nhà nước bị thất thu thuế…

Hậu kiểm chặt chẽ doanh nghiệp FDI sẽ hạn chế được nhiều thiệt hại (ảnh minh họa)

Trên 500 doanh nghiệp FDI vắng chủ

Bộ KH-ĐT cho biết, số lượng doanh nghiệp FDI không còn hoạt động tại trụ sở đăng ký, chủ đầu tư bỏ về nước hoặc không thể liên lạc được gia tăng đáng kể trong thời gian qua. Trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ như: quản lý doanh nghiệp, xây dựng, bất động sản, thương mại, phần mềm, ăn uống, nhà hàng… Số còn lại là các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất. Phần lớn những doanh nghiệp này do chủ đầu tư Hàn Quốc, Trung Quốc thực hiện, có quy mô nhỏ (dưới 500.000 USD) và thuê lại nhà xưởng của các nhà đầu tư khác mà không có hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản.

Tính đến hết ngày 31-5, trên cả nước có 518 doanh nghiệp FDI vắng chủ, với tổng số vốn đầu tư đăng ký khoảng 903,11 triệu USD. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, thua lỗ, không trả được lương cho người lao động, không thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước và thanh toán các khoản nợ của đối tác, khách hàng nên buộc phải đóng cửa, ngừng kinh doanh. Mặt khác, do thủ tục chấm dứt hoạt động, thanh lý và giải thể doanh nghiệp theo quy định của pháp luật thường mất thời gian, tốn chi phí nên nhiều nhà đầu tư đã bỏ về nước, không thực hiện các thủ tục để chấm dứt các hoạt động.

Theo Bộ KH-ĐT, việc chủ doanh nghiệp bỏ về nước đã gây ra tác động khác nhau về kinh tế – xã hội, trật tự quản lý nhà nước và môi trường như: người lao động bị mất việc làm, bị nợ lương và các chế độ theo quy định; Nhà nước bị thất thu ngân sách do không thu được thuế còn nợ đọng, bảo hiểm xã hội và các nghĩa vụ tài chính khác. Ngoài ra, các dự án đóng cửa gây lãng phí tài nguyên đất đai.

Hiện tại, chưa có thống kê nào cụ thể về số lượng lao động bị mất việc làm, ảnh hưởng do doanh nghiệp FDI “vắng chủ”. Nhưng điều dễ nhận thấy nhất trong các dự án này là doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội, sổ bảo hiểm xã hội hoặc không trả lại sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động. Một số doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động gây ra hậu quả lớn về mặt xã hội.

Người lao động chịu thiệt hại nặng nề khi các chủ đầu tư “biến mất” (Ảnh minh họa)

Hậu quả lâu dài

Các chuyên gia của Bộ KH-ĐT cho biết, giải quyết khó khăn cho người lao động tại doanh nghiệp FDI “vắng chủ” rất phức tạp. Ngày 23-2-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 30-TTg về chính sách hỗ trợ cho người lao động mất việc làm trong doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, Quyết định này đã hết hiệu lực từ năm 2010. Bởi vậy, Bộ KH-ĐT đề nghị tiếp tục thực hiện hỗ trợ người lao động. Cụ thể, trích ngân sách địa phương để ứng trả cho người lao động khoản lương bị nợ của doanh nghiệp FDI “vắng chủ”. Khoản tạm ứng này sẽ được hoàn trả khi thực hiện xử lý tài sản của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Đồng thời, đề nghị cho phép UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động hỗ trợ người lao động bị mất việc làm trong doanh nghiệp FDI này từ nguồn ngân sách địa phương.

Bên cạnh việc giải quyết hậu quả về người lao động, đối với các doanh nghiệp FDI này, cơ quan quản lý cũng gặp trở ngại khi muốn tiến hành thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư vì pháp luật hiện hành chưa có quy định. Mặt khác cũng không thể giải thể doanh nghiệp khi chưa đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và các nghĩa vụ khác cũng như khi vắng mặt chủ doanh nghiệp.

Sắp tới, các căn cứ pháp lý liên quan đến việc xử lý doanh nghiệp “vắng chủ” sẽ được bổ sung, hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về giải pháp cho vấn đề này. Bộ KH-ĐT đang phối hợp với các cơ quan liên quan tìm cách liên lạc với chủ đầu tư các dự án theo địa chỉ của nhà đầu tư tại nước ngoài theo thông tin đăng ký với cơ quan nhà nước tại Việt Nam để yêu cầu nhà đầu tư giải quyết các vấn đề tồn đọng theo quy định của pháp luật. Đồng thời, tăng cường công tác hậu kiểm, giám sát đối với các doanh nghiệp FDI nhằm tránh tình trạng tồn đọng, kéo dài nợ thuế và bảo hiểm xã hội.

Vân Hằng

Từ khoá: nghĩa vụ bảo hiểm người lao động bảo hiểm xã hội giấy chứng nhận quản lý doanh nghiệp doanh nghiệp nhà nước bão quản lý nhà nước quy định giải quyết việc làm đồng bảo hiểm doanh nghiệp xây dựng lao động bất động sản pháp luật thủ tục

Cháy lớn tại kho bạc nhà nước, gần 100 Công an chữa cháy

(GDVN) -Khoảng 7 giờ sáng 13-8, một đám cháy phát ra từ Kho bạc nhà nước tỉnh Tiền Giang, trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, TP Mỹ Tho (Tiền Giang), làm hàng trăm nhân viên hoảng hốt. Tuy nhiên, do thông báo kịp thời nên công an TP Mỹ Tho đã điều gần 100 cán bộ, chiến sĩ công an dập tắt hoàn đám cháy

Báo Người lao động đưa tin, theo kết quả điều tra ban đầu khoảng 6 giờ 50 phút khi nhân viên kho bạc bật cầu dao điện để chuẩn bị làm việc, thì 10 phút sau, thì phát hiện xảy ra cháy ở phòng máy vi tính ở tầng 3.

Hiện trường vụ cháy. Ảnh Thanh Niên

Lực lượng chữa cháy tại chỗ đã sử dụng hàng chục bình chữa cháy khống chế, Công an TP Mỹ Tho đã có mặt kịp thời, trong đó có nhiều CSGT tham gia chữa cháy vì đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát gần đó cũng tham gia nên chỉ thiệt hại ở phòng máy vi tính.

Theo tờ Thanh Niên Ông Nguyễn Thoại Tâm, Phó giám đốc Kho bạc cho biết, tòa nhà này luôn ngắt điện khi hết giờ làm việc. Sáng nay, khi các nhân viên của đơn vị tới cơ quan và đóng điện trở lại thì nghe chuông báo động cháy.

Sau khi hàng trăm cảnh sát tham gia chữa lửa đám cháy tại kho bạc nhà nước đã được dập tắt kịp thời. Ảnh Người Lao Động
Công an khám nghiệm hiện trường vụ cháy kho bạc. Ảnh Người lao động
Phòng vi tính, nơi phát ra đám cháy ở kho bạc nhà nước . Ảnh Người lao động

Các nhân viên kiểm tra và phát hiện khói tỏa ra từ phòng máy tính nên đã điện thoại báo lực lượng chữa cháy chuyên nghiệp đồng thời sử dụng bình chữa lửa tại chỗ để dập lửa, không cho lan sang các phòng khác.

Ông Đoàn Văn Thanh, Trưởng Công an TP. Mỹ Tho, cho biết chưa có kết luận chính thức về nguyên nhân cháy nhưng ghi nhận tại hiện trường có thể đám cháy phát ra từ ổ cắm điện của phòng.

Rất may vụ cháy không gây thiệt hại lớn về tài sản và người và hiện tại kho bạc đã được công an phong tỏa hiện trường, ngưng giao dịch để điều tra.

Từ khoá: chữa cháy người lao động gia nhân viên công an bão

10 nghề nguy hiểm nhưng lương ‘bèo bọt’

(NDHMoney) Có những công việc rất nguy hiểm nhưng số tiền mà người lao động nhận được lại ‘chẳng đáng bao nhiêu’.

Trang Bloomberg mới đây đã xếp hạng những nghề nguy hiểm nhưng lương thấp tại Mỹ. Điểm trung bình được tính bằng cách lấy tỷ lệ tử vong hàng năm trên 100.000 người chia cho mức lương trung bình hàng năm của người lao động, sau đó chia cho 100. Điểm số càng thấp chứng tỏ thu nhập mà công nhân nhận được càng ‘bèo bọt’ so với nguy cơ rủi ro mà họ phải đối mặt.

Dưới đây là top 10 trong bảng xếp hạng của Bloomberg:

10. Công nhân cấu trúc sắt thép

Tỷ lệ tử vong hàng năm trên 100.000 người: 26,9

Mức lương trung bình hàng năm: 46.140 USD

Điểm trung bình: 17,2

9. Công nhân lái xe/bán hàng và lái xe tải

Tỷ lệ tử vong hàng năm trên 100.000 người: 24

Mức lương trung bình hàng năm: 34.550 USD

Điểm trung bình: 14,4

8. Công nhân làm vườn

Tỷ lệ tử vong hàng năm trên 100.000 người: 16,8

Mức lương trung bình hàng năm: 23.970 USD

Điểm trung bình: 14,3

7. Lái xe taxi và tài xế riêng

Tỷ lệ tử vong hàng năm trên 100.000 người: 19,7

Mức lương trung bình hàng năm: 22.820 USD

Điểm trung bình: 11,6

6. Công nhân sửa chữa mái nhà

Tỷ lệ tử vong hàng năm trên 100.000 người: 31,8

Mức lương trung bình hàng năm: 35.290 USD

Điểm trung bình: 11,1

5. Công nhân làm các việc vặt trong lĩnh vực nông nghiệp

Tỷ lệ tử vong hàng năm trên 100.000 người: 17,4

Mức lương trung bình hàng năm: 18.900 USD

Điểm trung bình: 10,9

4. Công nhân thu gom rác thải và vật liệu tái chế

Tỷ lệ tử vong hàng năm trên 100.000 người: 41,2

Mức lương trung bình hàng năm: 32.930 USD

Điểm trung bình: 8,0

3. Công nhân khai thác ( bao gồm khai thác đá)

Tỷ lệ tử vong hàng năm trên 100.000 người: 71,6

Mức lương trung bình hàng năm: 38.810 USD

Điểm trung bình: 5,4

2. Công nhân khai thác gỗ

Tỷ lệ tử vong hàng năm trên 100.000 người: 102,4

Mức lương trung bình hàng năm: 33.630 USD

Điểm trung bình: 3,3

1. Ngư dân và công nhân liên quan tới nghề cá

Tỷ lệ tử vong hàng năm trên 100.000 người: 121,2

Mức lương trung bình hàng năm: 33.430 USD

Điểm trung bình: 2,8

Từ khoá: người lao động công nhân khai thác tử vong

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Nhấn mạnh 5 vấn đề trọng tâm

Tại Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XI,

> Khai mạc Đại hội XI Công đoàn Việt Nam

> Khắc phục bệnh quan liêu trong hoạt động công đoàn

TP – Sáng 28/7, Đại hội lần thứ XI Công đoàn Việt Nam (nhiệm kỳ 2013-2018) với chủ đề “Đoàn kết – Trí tuệ – Dân chủ – Đổi mới” đã chính thức khai mạc tại Hà Nội.

Tham dự Đại hội có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch nước Trương Tấn Sang; Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Huỳnh Đảm cùng nhiều đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đại diện các đoàn khách quốc tế… và 944 đại biểu chính thức đại diện cho gần 8 triệu công nhân viên chức lao động trong cả nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng. Tiền Phong trích đăng bài phát biểu này (Toàn văn bài phát biểu xin xem trên Tienphong.vn).

Tôi đồng tình với phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2013 – 2018 do Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá X trình Đại hội, đặc biệt là về mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, các giải pháp lớn. Chỉ xin nhấn mạnh, gợi mở thêm một số vấn đề để Đại hội thảo luận, xem xét, quyết định.

Một là, Đại hội đại biểu lần thứ XI của Công đoàn Việt Nam diễn ra trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong đó có Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về xây dựng giai cấp công nhân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nghị quyết Trung ương 7 khoá XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. Đây là dịp để Đại hội bàn và tìm giải pháp xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh. Vì vậy, các đồng chí cần nắm vững và quán triệt thật sâu sắc những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Cương lĩnh chính trị và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ mới; các nghị quyết của Trung ương Đảng; nắm bắt tình hình và các nguyện vọng chính đáng của công nhân để tham mưu cho Đảng, Nhà nước có những chính sách, biện pháp cụ thể đưa các quan điểm, tư tưởng, chủ trương của Đảng vào cuộc sống.

Hai la, Công đoàn cần chăm lo làm tốt hơn nữa nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay, đất nước ta đang chuyển mình mạnh mẽ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có rất nhiều yêu cầu mới, vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi đội ngũ công nhân, lao động phải nâng mình lên một tầm cao mới – tầm cao không chỉ về lao động có trí tuệ và sáng tạo, mà cả về sự nhận thức vai trò, vị trí chính trị to lớn của giai cấp công nhân – giai cấp làm chủ vận mệnh của đất nước, lại đang có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng theo hướng ngày càng trí thức hoá. Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, giai cấp công nhân nước ta tuy còn nhỏ bé, nhưng với những phẩm chất chính trị và truyền thống cách mạng kiên cường, lại có đội tiên phong là Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân vẫn là và sẽ tiếp tục là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Lịch sử hơn ba phần tư thế kỷ qua chứng minh rằng giai cấp công nhân Việt Nam luôn luôn đứng ở trung tâm các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, kế thừa và làm rạng rỡ thêm truyền thống của dân tộc.

Tất cả mọi công nhân, lao động dù làm việc ở loại hình doanh nghiệp nào cũng đều với tư thế và tư cách là chủ nhân của đất nước, của xã hội, tuân theo pháp luật và có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân, được pháp luật bảo vệ.

Tổng Bí thư

Nguyễn Phú Trọng

Để xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh, trước hết cần quan tâm nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị và trình độ các mặt của giai cấp công nhân, đào tạo cán bộ xuất thân từ công nhân, chăm lo lợi ích thiết thân của đội ngũ công nhân, lao động, nhất là về giải quyết việc làm, nhà ở, thu nhập, điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chính sách xã hội khác. Chủ động phối hợp với các cấp chính quyền quan tâm đào tạo, đào tạo lại để công nhân, lao động có thể tiếp cận với những tiến bộ khoa học kỹ thuật và tri thức mới. Tạo ra một phong trào học tập sôi nổi, thiết thực và hiệu quả trong công nhân, lao động, nhất là thế hệ trẻ; học tập gắn liền với lao động sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ mới, tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn.

Các cấp công đoàn cần chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục, giúp công nhân, viên chức, lao động nâng cao nhận thức về giai cấp, về Đảng, về tổ chức Công đoàn, phát huy lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lao động cần cù, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới, làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức và khối đại đoàn kết dân tộc. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Công đoàn càng phải làm tốt vai trò là người đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công nhân, lao động. Chủ động tham gia thương lượng với người sử dụng lao động và tổ chức tốt việc ký kết, thực hiện thỏa ước lao động tập thể, giải quyết tốt các tranh chấp lao động, tham gia xây dựng phương án sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh, đổi mới tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp, trước hết là doanh nghiệp nhà nước theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, tham gia rà soát, xây dựng định mức lao động, nhất là ở những đơn vị cổ phần hoá, sắp xếp lại hoặc giải thể. Chú trọng tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; đẩy mạnh các hoạt động xã hội, tạo điều kiện để công nhân, lao động thực hiện được quyền làm chủ của mình.

Ba là,Công đoàn cần chủ động phối hợp với chính quyền phát động sâu rộng và tổ chức các phong trào hành động cách mạng trong công nhân, lao động. Động viên đông đảo công nhân, lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, đi đầu trong các phong trào thi đua phát triển kinh tế – xã hội. Phải liên tục đổi mới nội dung và hình thức tổ chức các phong trào thi đua phù hợp với đặc điểm ngành, địa phương và cơ sở, hướng phong trào thi đua vào mục tiêu “năng suất – chất lượng – hiệu quả”, “việc làm – đời sống – dân chủ và công bằng xã hội”, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập, cải thiện đời sống công nhân, lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế, hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành và địa phương.

Sự tham gia của Công đoàn, của công nhân và lao động vào phát triển kinh tế – xã hội, quản lý nhà nước, quản lý xã hội là yêu cầu khách quan của sự phát triển xã hội, là một trong những nội dung nói lên bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội ta. Công đoàn cần chủ động tham gia và bảo vệ, tạo mọi điều kiện để công nhân, lao động có quyền chủ động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh và được hưởng lợi xứng đáng với những đóng góp của mình khi tham gia các công việc của doanh nghiệp.

Ngày nay, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, ở nước ta có nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh, trong đó có cả kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Tất cả mọi công nhân, lao động dù làm việc ở loại hình doanh nghiệp nào cũng đều với tư thế và tư cách là chủ nhân của đất nước, của xã hội, tuân theo pháp luật và có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân, được pháp luật bảo vệ. Tôi đề nghị các tổ chức Công đoàn cần nhận thức sâu sắc vấn đề này để tuyên truyền, giáo dục trong đội ngũ công nhân,

lao động.

Bốn la, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các cấp công đoàn cần đẩy mạnh việc xây dựng tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ và cải tiến phương thức hoạt động phù hợp với yêu cầu mới. Chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức Công đoàn, làm cho Công đoàn không ngừng lớn mạnh, thật sự là tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức quần chúng rộng lớn của công nhân, lao động, đại diện cho sức mạnh, tài năng, trí tuệ và lợi ích của công nhân, lao động. Cần phải đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng và tăng cường các hoạt động xã hội để tập hợp, động viên được đông đảo công nhân, lao động trong tất cả các thành phần kinh tế. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các cấp công đoàn, đặc biệt là công đoàn cơ sở, theo phương châm “vì quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước”. Khắc phục tình trạng xơ cứng, hành chính hoá trong hoạt động công đoàn. Đẩy mạnh việc thành lập tổ chức Công đoàn ở khu vực kinh tế tư nhân, liên doanh và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, lao động, đồng thời là chỗ dựa tin cậy để phát huy vai trò làm chủ của công nhân,

lao động.

Trong giai đoạn hiện nay, công nhân, lao động nước ta có trình độ nhận thức chính trị, trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật, trình độ hiểu biết về mọi mặt ngày càng cao; tâm lý, nhu cầu, nguyện vọng cũng ngày càng đa dạng. Cho nên công tác vận động, thuyết phục, hình thức công tác của tổ chức Công đoàn cũng phải được thường xuyên đổi mới, phong phú hơn, sinh động, hấp dẫn hơn, phù hợp và thiết thực với từng đối tượng, tránh máy móc, đơn giản, tẻ nhạt; khắc phục tình trạng quan liêu, xa cơ sở, xa đoàn viên, người lao động. Cán bộ Công đoàn là những cán bộ chính trị, hoạt động xã hội, làm công tác vận động quần chúng, từ phong trào quần chúng mà ra, được bồi dưỡng và trưởng thành từ thực tế lao động, sản xuất, kinh doanh. Trước yêu cầu mới, cần đặc biệt coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp, giúp họ chẳng những có lập trường chính trị vững vàng, có nhiệt tình công tác mà còn phải có hiểu biết về văn hoá, khoa học và năng lực chuyên môn, có tác phong quần chúng, có kiến thức và phương pháp vận động quần chúng, đáp ứng yêu cầu hoạt động công đoàn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Năm là, Công đoàn cần làm tốt công tác xây dựng Đảng tại các cơ quan, tổ chức của mình theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và các nghị quyết của Trung ương Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; đồng thời tích cực tham gia xây dựng Đảng nói chung cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bởi vì phong trào công nhân và tổ chức, hoạt động của Công đoàn luôn luôn gắn bó chặt chẽ, hữu cơ với việc xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt, cần chú trọng phối hợp với các cơ quan nghiên cứu của Đảng và Nhà nước, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân và hoạt động của công đoàn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, giúp cho Đảng và Nhà nước có đủ căn cứ khoa học trong việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp. Quan tâm hơn nữa công tác đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ gìn sự trong sạch, bản chất cách mạng trong sáng của Đảng. Đẩy mạnh việc bồi dưỡng, phát triển Đảng trong công nhân, lao động; giới thiệu cho Đảng xem xét, kết nạp đảng viên từ những đoàn viên ưu tú của công đoàn và bổ sung cho Đảng những cán bộ xuất sắc, trưởng thành từ phong trào công nhân và hoạt động công đoàn, nhằm góp phần tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới.

Các cấp ủy và tổ chức Đảng cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình, thường xuyên chăm lo lãnh đạo phong trào công nhân và hoạt động của Công đoàn. Các cấp ủy phải định kỳ nghe tình hình công tác của các tổ chức công đoàn và nguyện vọng của công nhân, lao động, để kịp thời có ý kiến chỉ đạo; đồng thời lãnh đạo chính quyền, các ngành chuyên môn, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể khác phối hợp chặt chẽ với công đoàn trong các mặt công tác và tạo điều kiện thuận lợi để công đoàn hoạt động có hiệu quả.

PV

Từ khoá: thị trường kinh tế lợi ích vai trò chiến lược phát triển đồng bảo hiểm phát huy chính trị lao động người sử dụng lao động chủ tịch nước kinh doanh nguyễn tấn dũng nhà nước gia pháp luật hình thức phát triển kinh tế thị trường hội nhập quốc tế chất lượng người lao động nguyễn phú trọng khắc phục bão khoa học đồng xa việc làm nhận thức quản lý nhà nước bảo hiểm xã hội xây dựng công nhân doanh nghiệp nhà nước doanh nghiệp chính sách nền kinh tế quan tâm lợi ích hợp pháp cách mạng quan trọng việt nam đào tạo hiệu quả